Diễn Đàn ...::: TEEN :::...
Welcome To Forum TEEN
Vui lòng Đăng Ký Nick để xem phim,sử dụng Diễn Đàn tốt hơn .
Để ửng hộ Kevin , bạn chỉ cần đăng ký nick tại Forum này . Nhấp vào Đăng Ký . Have a greet day
Diễn Đàn ...::: TEEN :::...
Welcome To Forum TEEN
Vui lòng Đăng Ký Nick để xem phim,sử dụng Diễn Đàn tốt hơn .
Để ửng hộ Kevin , bạn chỉ cần đăng ký nick tại Forum này . Nhấp vào Đăng Ký . Have a greet day
Diễn Đàn ...::: TEEN :::...
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn ...::: TEEN :::...

::: NGÀ @ HẢI @ TAMMY @ ANTHONY :::
 
Trang ChínhPortalLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Ca Dao Ngụ Ngôn Người Việt

Go down 
Tác giảThông điệp
ngusaokhoc
MOD Diễn Đàn
MOD Diễn Đàn
ngusaokhoc


Tổng số bài gửi : 149
Points : 448
Reputation : 0
Join date : 26/10/2011

Ca Dao Ngụ Ngôn Người Việt  Empty
Bài gửiTiêu đề: Ca Dao Ngụ Ngôn Người Việt    Ca Dao Ngụ Ngôn Người Việt  I_icon_minitimeWed Oct 26, 2011 6:33 am

Trích từ: Ca Dao Ngụ Ngôn Người Việt
- Triều Nguyên - Nhà Xuất Bản Thuận Hóa

1 . Anh Chồng Dễ Tính
Lỗ mũi em mười tám gánh lông,
Chồng yêu, chồng bảo: "Râu rồng trời cho":
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu, chồng bảo: ngáy cho vui nhà".
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu, chồng bảo: "Về nhà đỡ cơm".
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu, chồng bảo: "Hoa thơm rắc đầu'.

Ghi theo HT: 202, VNP1 I: 143 và VNP7: 291. Các sách TCBD l: 410, HHĐN: 135, TNPD ll: 104 và THĐQ: 15 cũng có chép bài ca dao với vài khác biệt nhỏ. Riêng NASL II: 22a chỉ ghi bốn dòng đầu (với vài khác biệt nhỏ).

Sách NGCK: 194a có chép bài mang nội dung gần gũi:
Hai nách những lông xồm xồm,
Chống yêu chồng bảo mối tơ hồng trời cho.
Đêm ngủ thì ngáy o o,
Chồng yêu chồng bảo lái đò cầm canh.
Ăn vụng bụng to tày thùng,
Chồng yêu chồng bảo cái giành đựng cơm.

Người đàn bà mắc nhiều cái xấu, lỗ mũi đầy những lông, lúc ngủ thì ngáy to, đi chợ thì ăn quà[1] làm việc thì để rơm rác dính đầy đầu (thủ pháp phóng đại được dùng để tô đậm những cái xấu này). '
Nhưng chúng đều được anh chồng dễ tính (hoặc quá yêu vợ), biến thành tốt đẹp cả. Giả như gặp phải những anh chàng khó tính, thì chị nọ không tránh khỏi những lôi thôi.

Người chồng ở đây không chỉ dễ tính mà còn vui tính nữa, trước mỗi cái xấu của vợ (mà rất có thể do những người xoi bói chỉ ra), anh ta đều đùa được hóa giải được, khiến các chỉ trích trở nên vô nghĩa. Điều này, ngoài chuyện "Khi yêu trái ấu cũng tròn", còn thể hiện một thái độ bao dung, chấp nhận cái xấu của nhau khi đã làm vợ chồng, của người đàn ông. Cờ thể nói đây là một đức tính tốt; nó tạo không khí hòa thuận và có khả năng cảm hóa cái xấu. Ở mặt trái của vấn đề cũng cần thấy rằng, nếu quá dung túng cái xấu của vợ, sẽ dễ biến vợ thành hư hỏng.

Ngoài ra, bài ca dao còn hàm ý cười chê những ngưới đàn bà xấu xí lại luộm thuộm, vụng về.


2. BA BÀ CHIA BỐN QUẢ DỪA
Ba bà đi chơ, mua bốn quả dừa,
Chia đi chia lại, đã trưa mất rồi.
May sao lại gặp một người:
"Ba bà ba quả, phần tôi quả này!"

Ghi theo NASL II: 35b. Sách NASL III: 54a chỉ chép hai dòng đầu thành bài riêng.
Ba bà với bốn quả dừa, không biết chia sao cho đều. Họ ngồi chia đi chia lại bàn qua cãi về nhiều bận vẫn không tìm ra lối thoát.

Trời lại lại đã trưa, không về làm kịp bữa cơm e mỗi người khó tránh khỏi chuyện rầy rà. Một người lạ đến. Nghe rõ sự tình, người này nói: ba bà ba quả, vậy là công bằng; quả còn lại là phần thưởng cho tôi đã giải quyết việc chia chác khó khăn để các bà về, may ra còn làm kịp bữa cơm trưa".

Trên đây là hình thức diễn xuôi của bài ca dao. Người đọc có thể suy ra sự đồng tình của ba bà về cách chia. Và ngụ ý của bài ca dao cũng có thể nhận thấy: Trong những trường hợp mà sự chia chác khó được sòng phẳng thì nên nhường nhịn nhau một chút (lẽ nào trong ba bà lại không có ai là người có hoàn cảnh đáng để hưởng quả dừa thứ tư như đông con cháu hơn, hoặc việc nấu nướng cần thiết hơn chuyện giải khát,... - mà phải mất không cho người ngoài cuộc.

3. BÀ GIÀ KÉN VỢ CHO CON
Bà già kén vợ cho con,
Kén ba năm tròn, được bóng thờ vua.
Thế gian tham của thời thua,
Của ăn thời hết, bóng thờ vua hãy còn.

Ghi theo NASL II: 12a.
Người mẹ già kén vợ cho con trai. Ba năm tròn, bà vẫn chưa tìm ra một người con dâu vừa ý. Thay vào đó, bà rước "bóng thờ vua" về nhà, và giãi bày rằng: thế gian vì tham của sinh ra kém cỏi, không nhìn xa thấy rộng, của mấy ăn cũng hết trong lúc "bóng thờ vua" thì mãi còn.

Bóng thờ vua có thể hiểu là hình vẽ về một ông vua, dùng dể thờ (có thể vua đang trị vì hay vua đã chết. vua Tàu hay vua ta). hoặc là xác đồng dành riêng cho hồn ma một ông vua hay người được coi như vua (tương tự trường hợp các bà bóng làm xác đồng thường xuyên của một thánh bà hoặc tôn ông trong đạo Mẫu), hoặc đây là cách nói của bà già " chỉ việc con mình được chọn làm lính ở cung để hầu hạ. phục dịch vua chúa.

Dẫu hiểu bóng thờ vua" theo hướng nào đi nữa, đó cũng không phải là đứa con dâu bằng xương bằng thịt và bình thường như bao người khác Bà đã làm cái việc như câu chuyện thả mồi bất bóng. Chẳng hiếm gì con gái trong thế gian để chọn cho con yên bề gia thất, vậy mà lại rước cái xa vời, vu vơ về nhà (đã thế, còn tự hào, cho mình biết nhìn xa, thiên hạ đều thiển cận).

Miêu tả điều này, bài ca dao nhằm uốn nắn tính chất hoang tưởng thưởng gặp trong mỗi con người.


4. BÀ GIÀ XEM QUẺ LẤY CHỒNG

Bà già ra chợ Cầu Đông,
Xem một quẻ bói: lấy chồng lợi chăng?
Thầy bói xem quẻ, nói rằng:
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn".

Ghi theo HT: 198, VNPI I: 143 và VNP7: 292. Các sách TCBD I: 400, TCBD III; 91. TNPD II: 20 và CDHN: 152 cũng có chép bài ca dao với đôi chỗ khác biệt nhỏ.

Bà già chủ động xem quẻ bói về chuyện thiệt hơn nếu mình lấy chồng. Chuyên lợi hay không lợi của việc lấy chồng không đặt ra đối với các cô gáỉ vì với họ, lấy chồng là tất nhiên; nhưng với bà già thì không được xã hội cho là bình thường nữa, ông thầy bói nói trắng giọng nước đôi của thầy bói: vừa có lợi, vừa không lợi (bởi mất răng).

Cách trả lời của ông thầy bói cũng khéo léo. “Lợi " là phần thịt ở chân răng (mà bà già có thể chỉ còn lợi, chứ răng thì đã bị rụng); lợi được liên tưởng như vậy về nghĩa vì nó cùng trường từ vựng - ngữ nghĩa với răng", và lợi" cũng được hiểu là nội dung giải đáp của câu hỏi: “lợi chăng” (trái nghĩa với “hạỉ "). Chuyện các bà già muốn chồng, từng được ca dao nói đến:

* Bà già tuổi tám mươi hai,
Ngồi trong quan tài hát ghẹo ông sư. [NASL II: 26b]

Bà già tuổi tám mươi hai,
Nằm trong quan tài hát ví thợ sơn. [CDTCM: 253]

* Bà già đã tám mươi tư,
Ngồi bên cửa sổ viết thư tìm chồng. [TCBD I: 400]


Bài ca dao là một tiếng cười hóm hỉnh, nhằm điều chỉnh" những cảm xúc tình ái mạnh mẽ ở các lão bà, nếu những cảm xúc ấy có thật.


5. BÀ THỨC NHƯ CHONG
“Bà nằm bà có ngủ đâu”,
Nó khênh nó bỏ vườn dâu bao giờ.
"Đêm năm canh bà nằm chả nhắp",
Nó khênh bà đi khắp mọi nơi.
"Đêm qua bà thức như chong”,
Nó khênh nó bỏ vườn dong bao giờ."

Ghi theo NASL II: 32b.

Sáu dòng của bài ca dao có thể tách làm ba phần, mỗi phần hai dòng: dòng đầu là lời đinh ninh không hề ngủ của bà, dòng sau là chuyện khênh giường bà mà bà không biết, để bác bỏ lời bà.

Vì sao bà cứ một mực “có ngủ đâu”, “nằm chả nhấp", “thức như chong", như vì công việc hay bị bắt buộc phái thức đêm vậy? Chẳng ai buộc bà phải thức, phải thanh minh như vậy cả. Chỉ bà hoặc để chứng tỏ là mình đã lo lắng cho cả nhà, hoặc muốn con cháu quan tâm đến sức khỏe của mình hơn (hoặc cả hai điều ấy), mới nói ra như thế. Con cháu không ai dám cãi, họ âm thầm hành động để phủ nhận điếu bà nói mà thôi. Hành động này cũng được phóng đại lên, chứ con cháu nào lại khênh giưòng bà ra vườn dâu, vườn dong? Đúng hơn, đây chỉ là một cách nói nhằm khẳng định bà có ngủ mà thôi.

Có khi do chuyện già cả đâm lú lẫn, ăn rồi nói chưa ăn, ngủ mê bảo không ngủ. Đây là chuyện bình thường; "một đời người tra, ba đời con nít" (tục ngữ) (sự lú lẫn, ngây dại của người già cả còn gấp ba lần trẻ nhỏ), con cháu không nên lấy đó làm điều. Nếu ở trường hợp sau thì bài ca dao mang tính chất đùa vui; riêng ở các trường hợp khác, giúp ta thấy được một nét tính cách của những người bà, người mẹ già, họ vẫn canh cánh lo lắng cho gia đình con cháu, dù lực bất tòng tâm.
6. BÁN BÒ, MUA DÊ VỀ CÀY

Buồn ngủ buồn nghê?
Bán bò tậu ruộng, mua dê về cày.
Đồn rằng, dê đực khỏe thay,
Bắt ách lên cày, nó lại phá ngang.

Ghi theo TNPD II: 25 và TCBD 1 : 498.
Làm ruộng phải cần đến trâu bò. Có ruộng mà không có bò thì cũng bằng không. Nhân vật của bài ca dao có lẽ cũng biết điều ấy. Cái sai lầm của người này là tin ở lời đồn đãi, rằng dê đực rất khỏe, có thể cày thay bò được (chuyện "cày thay bò" có thể do chính người nọ suy diễn ra). Không ngờ, đặt ách lên cổ dê, bị dê phá ngang" ngay. Vậy là xôi hỏng bỏng không, chỉ còn trơ mắt ra mà nhìn đám ruộng đầy những cỏ dại và con dê nhởn nhơ như thể trêu ngươi. Thật là buồn!

Lời ngụ: Trước khi có quyết định thay đổi một điều kiện, một công cụ sản xuất, cần tính đến hiệu quả của cái thay thế so với cái bị thay thế một cách chính xác, không cả tin vào dư luận.

7. BÁN BÒ, MUA ỄNH ƯƠNG

Vợ anh khéo liệu khéo lo,
Bán một con bò, mua cái ễnh ương.
Đem về thả ở gậm giường,
Nó kêu ỳ ọp, lại thương con bò

Ghi theo CDTH: 78.
Chuyện kể về một người vợ “khéo liệu khéo lo” Chị này đã đem bò bán và mua ễnh ương về. Khi nghe tiếng ỳ ọp của ễnh ương ở gầm ("gậm") giường. chị ta lại thương nhớ con bò. .
Bán, mua có thể không theo nghĩa trao đổi hàng - tiền, mà dùng theo nghĩa bóng (tương tự “bán... mua" trong “bán buồn mua vui", “bán bà con xa, mua xóm giềng gần”…) Ễnh ương là một động vật không ai nuôi, và cũng chẳng có lợi gì (trong quan niệm của người bình dân), lại ồn ào, nhớp nháp khiến không ít người phụ nữ phải khiếp sợ. Vậy mà nó lại nằm dưới giường.

Theo đó mà suy, rất có thể đây là một cách nói về một người phụ nữ đã từ rẫy một anh chồng tốt và rước lấy một ông chồng không ra gì, nay hiểu ra mới tiếc nuối: Xưa kia ngọc ở tay ta; Bởi ta chểnh mảng, ngọc ra tay người [NGCK: 189a]. Và như vậy, nói khéo liệu khéo lo" chỉ là nói mỉa, thực chất là ngu dại.

Ở mức độ khái quát, bài ca dao nhằm đưa ra lời khuyên: Không nên vì một phút nông nổi, hoặc thiếu chín chắn mà từ bỏ một con người tốt, một thứ quý, để kết thân với kẻ xấu, rước lấy vật tồi, đến lúc hối hận thì chuyện đã rồi.
8. BẮT CHƯỚC THÚC SINH, HỌC ĐÒI HOẠN THƯ

Năm ngoái anh mới sang Tây,
Đồn rằng buôn bán năm nay phát tài.
Lòng anh muốn lấy vợ hai,
Rằng: "Nhà có thuận, nay mai nó về?
Rồi ra một quán đôi quê,
Tôi muốn nó về làm bạn sớm hôm.
Trước là sinh tử sinh tôn,
Sau nữa thờ phụng công môn ông bà.
Trước con nhà sau ra con nó,
Xin nhà rồi chớ có ghen tuông.
Chợ rộng thì làm gái buôn,
Sông rộng lắm nước trong nguồn chảy ra.
Lòng anh ăn ở thật thà,
Coi nó mười tám, coi nhà hai mươi;
Lòng anh chàng có như người,
Có mới nới cũ, tội trời ai mang;
Lòng anh ăn ở bằng ngang,
Nó giàu bằng mấy cũng nàng thứ hai".
-"Thôi thôi, tôi biết anh rồi,
Bụng anh nông nổi giếng khơi không bằng!
Bây giờ anh khéo khôn ngoan,
Sau anh tư túi, tôi làm chi anh?
Anh mà bắt chước Thúc Sinh,
Thì anh đừng trách vợ mình Hoạn Thư!"

Ghi theo CDTH: 154-155. Bài ca dao gồm 24 dòng lục bát, 3 dòng đầu là lời dẫn của người kể chuyện, rằng có một anh đi buôn bán đường xa, có tiền và có người tình, về ngỏ lời cùng vợ để cưới cô tình nhân nọ làm vợ hai; 15 dòng tiếp theo là lời anh ta; và 6 dòng cuối là lời của chị vợ.

Lời anh chàng thật khéo, vừa đe nếu không bằng lòng vẫn lấy, chấp nhận sống hai nơi ("một quán đôi quê "). hoặc do nghề nghiệp, do đặc điểm bản thân, không lấy người này cũng phải lấy người khác ("chợ rộng thì lắm gái buôn, sông rộng lấm nước trong nguồn chảy ra"); vừa tán là vẫn quý trọng chị hơn người kia ("coi nó mười tám, coi nhà hai mươi"; "nó giàu bằng mấy cũng nàng thứ hai";...)... Sau khi nghe lời chồng, chị vợ gạt phăng và nói gọn bằng những lời kinh điển", gọi theo ngôn ngữ của Homère là "những lời có cánh, còn nói theo kiểu dân gian là lời của “bụng ớt lòng chanh". Lời ấy không chỉ phản bác mà còn hăm dọa: "Anh mà bắt chước Thúc Sinh, thì anh đừng trách vợ mình Hoạn Thư! ". Theo lời lẽ của hai người mà suy, thì anh chồng có thể chỉ mới “bắt chước" Thúc Sinh thôi, còn chị vợ thì đã Hoạn Thư "thứ thiệt rồi.

Ngụ ý của bài ca dao, theo như đã phân tích, có thể diễn giải bằng hai lời ca dao sau (hiểu theo cách kết hợp hay riêng rẽ đều được):

* Sông bao nhiêu nước cũng vừa,
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.
[HHĐN: 270]

* Con chim khôn thỏ thẻ, nghe êm ái trên nhành,
Lời khôn em năn nỉ anh chẳng đành dứt ân.
[DCNTB: 186]


9. BÈO NƯỚC LỤT, SEN RÃ CÁNH

Trên đời gì rẻ bằng Bèo,
Chờ khi nước lụt, Bèo trèo lên Sen.
Trên đời gì tốt bằng Sen,
Quan yêu dân chuộng, rã bèn cũng hư.

Ghi theo VNP7: 106. Sách HHĐN: 48 và VNPI II: 113-114 cũng có chép bài ca dao với vài khác biệt nhỏ (như hai bản này ghi "dưới đời" thay vì "trên đời"; riêng HHĐN ghi "ai" thay vì "gì" - dòng 1 và dòng 3). “Rẻ " ngoài nghĩa trái với đắt (Rẻ như bèo), ở đây, còn mang các nét nghĩa rẻ rúng, khinh rẻ; “tốt" cũng hàm nghĩa đẹp, yêu vì, quý trọng. "Nước lụt" là thời cơ lớn để phát triển của Bèo; "rã bèn" (tạm hiểu là rã cánh, rệu rã) là lúc hết vận của Sen.

Thứ xoàng xĩnh, mạt hạng như Bèo mà khi có cơ hội, vẫn có thể vượt lên trên, ngự trị hạng cao quý; trong lúc đó, hạng tốt đẹp, cao sang như Sen, lúc hết thời, cũng là đồ bỏ đi.

Lời khuyên được rút ra: Trong cuộc sống, tuy có phân định sang hèn, cao thấp, đẹp xấu,... nhưng không nên tuyệt đối hóa sự phân loại và cố định hóa cách nhìn; bởi vì sự vật, hiện tượng (trong đó có con người và xã hội con người) luôn biến dịch, mỗi khi thời cơ, điều kiện tồn tại của chúng thay đổi, thì trật tự sang - hèn, cao - thấp, đẹp - xấu kia có thể thay đổi theo.

10. BẾ BỤT ĐI CHƠI

Gần chùa gọi Bụt bằng anh,
Thấy bụt hiền lành, bế Bụt đi chơi.

Ghi theo TNPD l: 129, TCBD III: 185. Các sách ĐNQT: 98a, NASL IV 14b, NGCK: 170b, LHCD: 26a cũng có chép bài này với đôi chỗ khác biệt (ví dụ, ở dòng bát, sách ĐNQT và LHCD ghi "hạ xuống đất chơi" thay vì ('bế Bụt đi chơi": NASL lại ghi ở vị trí tương ứng này là "gọi Bụt bằng em.

Bụt (Phật) được sùng bái, tôn kính. Những người là tín đồ của Thích Ca còn tin tưởng ở tài phép, quyền lực tối cao của các vị Phật. Ấy vậy mà nhân vật của bài ca dao, một người trần mắt thịt lại gọi Bụt bằng anh!

Lí do của việc đánh đồng vừa kể, chỉ đơn giản là người này ở gần Bụt. Không chỉ “gọi Bụt bằng anh” ông/bà ta còn “bế lụt đi chơi" (hay như sách NASL chép “Thấy Bụt hiền lành, gọi Bụt bằng em", tức hạ xuống thành bậc dưới mình .

Chuyện ở gần nhau dẫn đến ngộ nhận lớn như vậy, thật đáng xem xét. Vì gần thì thấy được nhau mà cái đập vào mắt là hình sắc, nên không hiếm người bị cái hình sắc ấy đánh lừa, làm cho cái nhìn bị lệch đi, không thấy được bản chất của đối tượng. Tục ngữ nói “Bụt chùa nhà không thiêng", cũng trên cơ sở này

Bài học được rút ra là: Không nên vì sự gần gũi hoặc có quan hệ giao tiếp mà khinh nhờn bậc tài cao đức trọng hay đánh đồng cái tài hèn đức mỏng của ta với họ.
[1] Chuyện người phụ nữ, nhất là phụ nữ đã có chồng, ăn quà vặt lúc đi chợ, thường bị ca dao lên án gay gắt. ở đây, nhằm tập hợp các thói xấu vào một người đàn bà, chuyện ăn quà khi đi chợ cũng được huy động góp phần

Về Đầu Trang Go down
 
Ca Dao Ngụ Ngôn Người Việt
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Lộ diện doanh nhân người Việt mua lại thị trấn Mỹ
» Những từ tiếng Anh người Việt hay phát âm chưa chuẩn xác
» 5 thủy thủ người Việt trên tàu Đài Loan bị cướp biển bắt giữ Thứ Bảy, 05/11/2011 22:41
» 5 thủy thủ người Việt trên tàu Đài Loan bị cướp biển bắt giữ Thứ Bảy, 05/11/2011 22:41
» Xe tải tông chết 2 người, 3 người bị thương 30/10/2011 11:02

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn ...::: TEEN :::... :: HỌC LÀM NGƯỜI :: CA DAO - NGỤ NGÔN-
Chuyển đến